Trang phục của người Việt thời kỳ này rất đơn giản, phù hợp với điều kiện khí hậu và lối sống nông nghiệp. Nam giới thường đóng khố bằng vải thô hoặc da thú, cởi trần để tiện lao động, đi chân đất. Nữ giới mặc áo yếm, váy dài hoặc áo cánh đơn giản. Chất liệu phổ biến là vải thô dệt từ sợi cây hoặc da thú, phản ánh trình độ kỹ thuật dệt may còn sơ khai. Trang sức phổ biến là vòng đồng, vòng đá, khuyên tai, thể hiện sự kết nối với tín ngưỡng và đời sống tâm linh. Mặc dù đơn giản nhưng đây là giai đoạn đầu tiên định hình nét đặc trưng của trang phục người Việt.
Dưới sự đô hộ của phương Bắc, trang phục người Việt chịu ảnh hưởng của văn hóa Hán, đặc biệt ở tầng lớp quan lại và quý tộc. Quan lại bắt đầu mặc áo dài rộng, có đai lưng, đội mũ theo phong cách Trung Hoa, tạo nên sự khác biệt rõ rệt với thường dân. Tuy nhiên, trong dân gian, trang phục truyền thống vẫn được giữ gìn với áo yếm, váy, áo ngắn và quần đơn giản. Nam giới lao động vẫn có thể cởi trần hoặc mặc áo vải thô. Đây là giai đoạn giao thoa văn hóa mạnh mẽ, đặt nền móng cho sự phát triển sau này của trang phục Việt Nam.
Sau khi giành lại độc lập, trang phục Việt Nam bắt đầu mang bản sắc riêng, không còn phụ thuộc hoàn toàn vào phong cách Trung Hoa. Vua chúa mặc áo bào thêu rồng, đội mũ miện, thể hiện quyền lực tối cao. Quan lại cũng mặc áo dài rộng nhưng có sự cải tiến về kiểu dáng, không còn quá nặng nề. Người dân vẫn mặc áo yếm, váy, áo ngắn hoặc quần, nam giới phổ biến kiểu áo ngắn và đóng khố. Tuy nhiên, do vừa thoát khỏi Bắc thuộc, trang phục vẫn chưa có sự khác biệt quá lớn so với các triều đại trước.
Trang phục thời Lý - Trần có sự phát triển rõ rệt về cả chất liệu và kiểu dáng, đặc biệt là tầng lớp quý tộc. Quan lại mặc áo dài rộng, tay áo thụng, thắt đai lưng, đội mũ cánh chuồn. Vua chúa mặc hoàng bào, đội mũ miện có châu ngọc. Phụ nữ trong giới quý tộc bắt đầu mặc áo giao lĩnh (áo dài cổ tròn), áo tứ thân và váy lụa, kết hợp với khăn vấn đầu. Người dân lao động vẫn mặc áo yếm, váy hoặc quần dài, áo ngắn. Chất liệu vải phong phú hơn, bao gồm tơ lụa và gấm vóc dành cho tầng lớp trên. Đây là thời kỳ phát triển rực rỡ, trang phục có tính thẩm mỹ cao, phản ánh sự hưng thịnh của vương triều.
Dưới triều Lê sơ, trang phục được quy định chặt chẽ theo đẳng cấp xã hội. Hoàng đế mặc long bào màu vàng, quan lại được phân cấp phẩm phục theo màu sắc: đỏ dành cho quan lớn, xanh lam dành cho quan cấp thấp, dân thường chỉ được mặc màu nâu hoặc đen. Quan lại mặc áo dài giao lĩnh, đội mũ phốc đầu hoặc mũ xếp. Người dân mặc áo tứ thân, váy dài (phụ nữ) và áo dài, quần ống rộng (nam giới). Sự phân hóa này giúp củng cố trật tự xã hội, nhưng cũng tạo ra sự gò bó, khiến trang phục mất đi sự sáng tạo và linh hoạt.
Dưới triều Mạc, trang phục có phần phóng khoáng hơn, phụ nữ bắt đầu mặc áo năm thân, váy lụa, áo tứ thân phổ biến hơn trong dân gian. Đây là giai đoạn chuyển tiếp quan trọng của trang phục truyền thống. Đến thời Lê Trung Hưng, triều đình lại siết chặt các quy định về trang phục, giữ nguyên những luật lệ từ thời Lê sơ. Phụ nữ mặc áo tứ thân, váy lụa, vấn khăn trên đầu, nam giới mặc áo dài, quần dài, tầng lớp quý tộc dùng nhiều vải gấm vóc cao cấp. Đây là thời kỳ trang phục Việt Nam vừa kế thừa truyền thống vừa có sự cải tiến nhất định.
Dưới thời Tây Sơn, vua Quang Trung chủ trương giản dị, loại bỏ sự rườm rà của trang phục triều đình. Quan lại và quân đội mặc trang phục đơn giản, gọn gàng, không quá cầu kỳ như thời Lê. Phụ nữ mặc áo dài tứ thân, yếm, váy, nam giới mặc áo dài ngắn, quần dài hoặc khố. Đây là một trong những giai đoạn trang phục thực dụng nhất, giúp người dân dễ dàng hoạt động nhưng lại mất đi phần nào vẻ sang trọng và uy nghiêm.
Trang phục thời Nguyễn đạt đến đỉnh cao về hình thức và quy tắc. Vua mặc long bào màu vàng, đội mũ cửu long, quan lại có phẩm phục riêng theo cấp bậc, với màu sắc và kiểu dáng được quy định rõ ràng. Thường dân bắt buộc mặc áo dài và quần, phụ nữ thay áo tứ thân bằng áo ngũ thân, tạo tiền đề cho áo dài Việt Nam hiện đại. Áo dài ngũ thân giúp tôn dáng, thể hiện sự thanh lịch và trang nghiêm, trở thành trang phục tiêu biểu của người Việt. Tuy nhiên, các quy tắc trang phục quá khắt khe đôi khi khiến người mặc mất đi sự thoải mái và tự do.
Sự xuất hiện của áo dài bắt nguồn từ áo giao lĩnh (năm 1744) – là kiểu dáng sơ khai nhất của áo dài Việt Nam. Áo giao lĩnh còn được gọi là áo đối lĩnh.
Đây là một loại áo rộng. Kiểu áo thời Lê vạt cả thường nhỏ hơn thân, ít khi xẻ tà hai bên hông nhưng sang thời Nguyễn luôn xẻ tà, vạt cả rộng bằng thân. Áo may dài tay, rộng tay (32–36 cm). Thân áo dài từ ngang xương ống đồng đến chấm gót chân và may bằng năm - sáu tấm vải, mặc áo phủ ngoài, bên trong là yếm che ngực. Phía dưới bụng quấn váy, buộc bằng thắt lưng nhuộm màu, hai đầu buông thả, nếu thân phận là hoa nương hoặc quý tộc thì phủ ngoài còn 1 lớp xiêm thường thêu hoa văn.
Vào thời gian này, vua Nguyễn Phúc Khoát đã lên ngôi và cai trị vùng đất phía Nam. Miền Bắc được cai quản bởi chúa Trịnh ở Hà Nội, người dân ở đây mặc áo giao lĩnh, trang phục mang nét tương đồng với người Hán. Nhằm phân biệt giữa Nam và Bắc, vua Nguyễn Phúc Khoát đã yêu cầu tất cả phụ tá của mình vận quần dài bên trong một chiếc áo lụa. Bộ váy này kết hợp giữa trang phục người Hán và Chămpa. Có thể đây là hình ảnh của bộ áo dài đầu tiên.
Đến thế kỷ 19 thì áo giao lĩnh không còn dùng như thường phục nữa mà chỉ sử dụng làm quan phục, tế phục.
Theo các nhà nghiên cứu và những hiện vật tại các bảo tàng áo dài thì để tiện hơn trong việc lao động sản xuất của người phụ nữ, chiếc áo giao lĩnh được may rời 2 tà trước để buộc vào với nhau, hai tà sau may liền lại thành vạt áo. Loại áo này được phổ biến bắt đầu vào khoảng thế kỉ 20.
Áo tứ thân không chỉ là một trang phục đẹp mà còn mang theo những ý nghĩa rất đặc biệt: Phía trước có hai tà, phía sau có hai tà (vạt áo) tượng trưng cho tứ thân phụ mẫu (cha mẹ chồng và cha mẹ vợ). Một vạt cụt có tác dụng như một cái yếm, nằm phía bên trong hai vạt lớn, tượng trưng cho cha mẹ ôm ấp đứa con vào lòng. Năm hạt nút nằm cân xứng năm vị trí cố định, giữ cho nếp áo được ngay thẳng, kín đáo tượng trưng cho năm đạo làm người: Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín. Hai vạt trước buộc lại tượng trưng cho tình chồng vợ quấn quýt.
Bài thơ "Chân quê" của Nguyễn Bính:
Nào đâu cái yếm lụa sồi?
Cái dây lưng đũi nhuộm hồi sang xuân?
Nào đâu cái áo tứ thân?
Cái khăn mỏ quạ, cái quần nái đen?
Áo tứ thân kết hợp với xà tích, nón thúng, nón dâu. Khi đi hội thì kết hợp cùng guốc cong sơn đen hoa văn thủy ba, nón ba tầm có quai thao.
Trên cơ sở áo tứ thân, đến thời vua Gia Long áo ngũ thân xuất hiện. Loại áo này thường được may thêm một tà nhỏ để tượng trưng cho địa vị của người mặc trong xã hội. Giai cấp quan lại quý tộc thường mặc áo ngũ thân để phân biệt với các tầng lớp nhân dân lao động trong xã hội.
Áo có 4 vạt được may thành 2 tà như áo dài, ở tà trước có thêm một vạt áo như lớp lót kín đáo chính là vạt áo thứ 5. Người Huế gọi là áo ngũ thân hay áo ngũ thể với ý nghĩa tương truyền rằng: “Năm thân áo tượng trưng cho đạo lý cao đẹp của con người, bốn thân áo của vạt trước, vạt sau tượng trưng cho “tứ thân phụ mẫu”, thân trong tượng trưng cho người con.”
Dựa vào kiểu dáng mà phân thành 2 loại: áo tấc và áo tay chẽn.
Áo dài ngũ thân tay tấc là loại áo có thiết kế tay rộng, dài thụng. Áo dài ngũ thân tay tấc thường được kết hợp cùng với một chiếc quần dài, áo che từ trên cổ xuống qua đầu gối. Cả áo tấc nữ và áo tấc nam đều thiết kế cổ lập lĩnh, cúc cài bên phải và năm tà áo.
Áo tay chẽn được thiết kế may hẹp khoảng 2cm bắt đầu từ khuỷu tay đến ống tay. Trong đó, phần thân trước dài trên mắt cá chân một chút, kết hợp ống tay được thiết kế gọn hơn áo tấc.
Áo dài Lemur là một kiểu áo dài được thiết kế bởi họa sĩ Lemur Cát Tường. Đây là một tên tuổi lừng lẫy trong làng Mỹ thuật Việt Nam đầu thế kỷ XX. Lemur chính là bút danh của họa sĩ, cũng là dấu ấn cá nhân mà ông muốn gửi gắm vào tác phẩm của mình.
Thiết kế Áo dài Lemur mang đậm tinh thần cách tân, nó có sự khác biệt độc đáo với các mẫu áo dài truyền thống ở thiết kế tà liền kín đáo từ trước ra sau từ đó tạo nên vẻ đẹp vừa e ấp, dịu dàng nhưng vẫn thanh lịch, hiện đại.
Áo dài Lemur được ra đời trong giai đoạn giao thời khi mà xã hội Việt Nam đang có sự chuyển mình mạnh mẽ dưới ảnh hưởng của văn hóa phương Tây.
Các nhà thiết kế đã tinh giản kiểu dáng, loại bỏ phần nối giữa thân áo, tạo nên chiếc áo dài ba thân thanh lịch và hiện đại. Ngoài ra thiết kế ôm sát lấy cơ thể, từ đó tôn lên những đường cong mềm mại và uyển chuyển của phái nữ. Một điểm nhấn đặc trưng nhất của mẫu áo dài này chính là thiết kế tà áo liền kín đáo từ trước ra sau. Đây là thiết kế khác biệt hoàn toàn với các thiết kế xẻ tà thịnh hành từ bấy giờ.
Đây cũng là một sự kết hợp mới từ áo tứ thân, biến thể của áo dài Lemur của họa sĩ Lê Phổ nên được gọi là áo dài Lê Phổ.
Bà đã thu gọn kích thước áo dài để ôm khít thân hình người phụ nữ Việt Nam, đẩy cầu vai, kéo dài tà áo chạm đất và đem đến nhiều màu sắc mới mẻ. Nói cách khác, bà khiến nó trở nên gợi cảm, tinh tế và thu hút hơn.
Sau bốn năm phổ biến, ‘áo dài le mur’ được hoạ sĩ Lê Phổ đã bỏ hết những ảnh hưởng phương Tây và thay thế bằng những chi tiết từ áo tứ thân. Từ thời điểm này đến những năm 1950, phong cách áo dài Việt Nam đã trở nên vô cùng nổi tiếng trong truyền thống nước nhà.
Áo dài Việt Nam qua các thời kỳ có sự biến đổi với nhiều kiểu dáng, chất liệu từ hiện đại đến phá cách. Áo dài còn được biến chuyển thành áo cưới, áo cách tân… Nhưng dù thế nào thì chiếc áo dài truyền thống của người phụ nữ Việt vẫn giữ được nét uyển chuyển, gợi cảm, kín đáo mà không trang phục nào mang lại được.
Cùng với xu hướng năng động, thay đổi của lối sống hiện đại, tà áo dài truyền thống được các nhà thiết kế cách điệu với tà ngắn hơn, thay đổi ở cổ áo, tay áo hoặc thậm chí là tà áo hoặc quần mặc chung với áo dài đem đến cho người phụ nữ Việt nhiều sự chọn lựa.
Cũng chính vì sự cách điệu này mà áo dài ngày càng được phụ nữ Việt diện nhiều hơn trong đời sống hàng ngày.
Video "Tôi yêu Sài Gòn" - BST Áo dài Tết 2024 LAMIA (Minh họa)
Lúc bấy giờ, người Việt cổ sống chủ yếu bằng nghề nông, săn bắt và hái lượm, vì vậy các lễ hội mang đậm dấu ấn của tín ngưỡng phồn thực và tâm linh. Lễ hội Lồng Tồng (Hội Xuống Đồng) là một trong những lễ hội tiêu biểu, được tổ chức vào đầu năm để cầu cho mùa màng tươi tốt, thiên nhiên thuận hòa. Đây cũng là dịp để người dân vui chơi, giao lưu với nhau qua các trò chơi dân gian như ném còn, đánh đu, hát đối đáp nam nữ. Ngoài ra, Giỗ tổ Hùng Vương cũng bắt đầu hình thành trong dân gian như một cách tỏ lòng biết ơn các vị vua Hùng, những người được xem là thuỷ tổ của dân tộc Việt. Lễ hội thời kỳ này có tính chất mộc mạc, gần gũi, thể hiện rõ niềm tin vào thần linh và sự gắn kết cộng đồng.
Suốt hơn một thiên niên kỷ dưới ách đô hộ của phương Bắc, văn hóa Việt Nam chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ Trung Hoa, trong đó có các lễ hội. Tuy nhiên, người Việt vẫn giữ được những nét văn hóa riêng, tiêu biểu là lễ hội thờ Thành Hoàng, xuất hiện rộng rãi trong các làng quê để tôn vinh những người có công khai khẩn đất đai hoặc bảo vệ làng xóm. Ngoài ra, Tết Nguyên Đán dần trở thành dịp lễ lớn nhất trong năm, kết hợp giữa phong tục bản địa và tập quán Trung Hoa, bao gồm các nghi lễ cúng tổ tiên, chúc Tết, du xuân. Đặc biệt, lễ hội Vu Lan cũng được du nhập từ Phật giáo Ấn Độ thông qua Trung Quốc, nhằm báo hiếu cha mẹ và tổ tiên. Mặc dù có nhiều yếu tố ngoại lai, nhưng lễ hội thời kỳ này vẫn mang bản sắc riêng, thể hiện lòng biết ơn với tổ tiên và tinh thần gắn kết cộng đồng.
Sau khi giành lại độc lập, các lễ hội truyền thống không còn bị pha trộn quá nhiều với văn hóa phương Bắc mà dần mang màu sắc riêng của dân tộc. Đây là thời kỳ xuất hiện nhiều lễ hội mang tính lịch sử, tưởng nhớ công lao của các vị vua sáng lập đất nước. Lễ hội Hoa Lư là một trong những lễ hội quan trọng nhất, được tổ chức hàng năm để tôn vinh vua Đinh Tiên Hoàng và Lê Hoàn, hai người có công lớn trong việc thống nhất giang sơn. Bên cạnh đó, Phật giáo phát triển mạnh mẽ, dẫn đến sự ra đời của nhiều lễ hội chùa chiền, nổi bật nhất là lễ hội chùa Hương, thu hút đông đảo người dân hành hương cầu bình an, may mắn. Ngoài ra, lễ hội đền Gióng cũng trở nên phổ biến hơn, tái hiện hình ảnh người anh hùng Thánh Gióng đánh giặc Ân, khơi dậy tinh thần yêu nước. Các lễ hội thời kỳ này không chỉ mang tính chất tâm linh mà còn nhấn mạnh đến tinh thần dân tộc và niềm tự hào về nền độc lập non trẻ.
Đây là giai đoạn rực rỡ của Phật giáo, nên lễ hội chùa chiền diễn ra khắp nơi, tạo nên không khí lễ hội sôi động trong suốt cả năm. Lễ hội chùa Yên Tử là một trong những lễ hội lớn nhất, gắn liền với Thiền phái Trúc Lâm do vua Trần Nhân Tông sáng lập. Ngoài ra, triều đình cũng tổ chức lễ hội đền Trần để tôn vinh các vị vua Trần, đặc biệt là các cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông. Đây cũng là thời kỳ xuất hiện lễ hội Bà Chúa Kho, phản ánh niềm tin dân gian về sự phù hộ của thần linh trong việc làm ăn, buôn bán. Các lễ hội không chỉ mang ý nghĩa tín ngưỡng mà còn thể hiện sự tôn vinh các bậc minh quân và anh hùng dân tộc.
Dưới triều Lê, lễ hội trở nên quy củ hơn, phản ánh tư tưởng Nho giáo và sự tôn nghiêm của triều đình. Lễ hội Lam Kinh được tổ chức hàng năm tại Thanh Hóa để tưởng nhớ vua Lê Thái Tổ, người sáng lập nhà Lê. Ngoài ra, lễ tế Nam Giao trở thành một trong những nghi thức quan trọng nhất của triều đình, trong đó nhà vua đích thân đứng ra cúng tế trời đất, thể hiện quyền lực tuyệt đối của hoàng đế. Dân gian vẫn tiếp tục duy trì các lễ hội truyền thống như lễ hội đền Kiếp Bạc, thờ Trần Hưng Đạo, người có công đánh bại quân Nguyên - Mông. Lễ hội thời kỳ này mang đậm dấu ấn của chế độ phong kiến, thể hiện sự tôn ti trật tự trong xã hội.
Đây là thời kỳ có nhiều biến động về chính trị, nhưng đời sống văn hóa vẫn phát triển mạnh mẽ với nhiều lễ hội dân gian. Lễ hội Gò Đống Đa được tổ chức để kỷ niệm chiến thắng của nghĩa quân Tây Sơn trước quân Thanh. Ngoài ra, lễ hội Tây Thiên dần trở nên phổ biến hơn, phản ánh tín ngưỡng thờ Mẫu, một đặc trưng của văn hóa Việt. Lễ hội đền Sóc tiếp tục được duy trì để tôn vinh Thánh Gióng, khơi dậy tinh thần yêu nước trong nhân dân. Các lễ hội thời kỳ này có sự kết hợp giữa yếu tố tâm linh và lòng tự hào dân tộc.
Dưới triều Tây Sơn, các lễ hội xa hoa, rườm rà của triều đình bị hạn chế, thay vào đó là các lễ hội mang tinh thần thượng võ và lòng yêu nước. Lễ hội tưởng nhớ vua Quang Trung được tổ chức để ghi dấu chiến thắng Ngọc Hồi - Đống Đa, trong đó người dân tái hiện cảnh quân Tây Sơn tiến đánh quân Thanh bằng những màn biểu diễn võ thuật. Lễ hội võ Tây Sơn cũng ra đời, nhằm gìn giữ truyền thống võ thuật của vùng đất Bình Định. So với các thời kỳ trước, lễ hội thời Tây Sơn có phần giản dị hơn nhưng vẫn mang ý nghĩa sâu sắc về lòng tự hào dân tộc.
Triều Nguyễn đặt nặng nghi lễ cung đình, do đó nhiều lễ hội mang tính quy mô lớn, phục vụ cho triều đình. Lễ Tế Giao là nghi lễ quan trọng nhất, trong đó nhà vua đích thân thực hiện các nghi thức cúng tế trời đất, cầu cho quốc thái dân an. Ngoài ra, lễ hội Huế mang đậm dấu ấn cung đình với các màn trình diễn nhã nhạc, múa cung đình và các trò chơi dân gian. Trong dân gian, lễ hội đền Hùng tiếp tục phát triển và được triều Nguyễn công nhận là một trong những nghi lễ quan trọng của đất nước. Lễ hội thời Nguyễn mang tính quy củ, vừa thể hiện quyền uy triều đình vừa bảo tồn những giá trị văn hóa truyền thống.
Ở thời kỳ này, nền văn minh nông nghiệp phát triển mạnh mẽ, với các loại thực phẩm chính như lúa gạo, ngô, khoai, sắn, rau củ quả, và các loại đậu. Phương thức chế biến Chủ yếu là nấu cơm, luộc, hấp hoặc nướng. Ẩm thực gắn liền với tín ngưỡng các món ăn như gà luộc, cá kho, hoặc các món ăn từ gạo thường được chuẩn bị trong các nghi lễ cúng tế tổ tiên hoặc thờ cúng thần linh.
Gạo là thực phẩm chính trong bữa ăn của người Việt cổ. Việc trồng lúa đã được phát triển từ rất sớm, và gạo là nguồn cung cấp chủ yếu trong chế độ ăn của người dân thời kỳ này. Bên cạnh gạo, các loại ngũ cốc khác như ngô, sắn, khoai cũng rất phổ biến. Rau, củ, quả và các loại đậu cũng là phần quan trọng trong chế độ ăn uống. Các loại rau như rau muống, rau dền, mồng tơi được chế biến thành các món canh hoặc ăn sống. Các món ăn phổ biến trong thời kỳ này chủ yếu là thịt động vật nướng hoặc hấp.
Các món canh, cháo, bánh xôi, bánh chưng, bánh dày xuất hiện và trở thành những món ăn truyền thống đặc trưng của người Việt. Sự phát triển của các món ăn chế biến từ lúa gạo: Gạo là thực phẩm chính, và các món như cơm tấm, cơm chiên, cơm nếp được ưa chuộng. Đặc sản vùng miền: Những món ăn theo vùng miền bắt đầu xuất hiện rõ nét, ví dụ như món bún thang ở Hà Nội hay món mắm tôm ở miền Bắc.
Thời kỳ giao thoa với văn hóa phương Tây: Trong giai đoạn này, sự giao thương với các thương nhân phương Tây, đặc biệt là người Bồ Đào Nha, đã mang đến những ảnh hưởng về nguyên liệu và kỹ thuật chế biến. Các loại gia vị như tiêu, quế, đinh hương được nhập khẩu và trở thành phần không thể thiếu trong các món ăn.
Đây là thời kỳ Lê Trung Hưng, với nền kinh tế nông nghiệp phát triển, thực phẩm chủ yếu là sản phẩm từ lúa nước, rau củ, cá, thịt gia súc, gia cầm. Ẩm thực Việt Nam thời kỳ này vẫn mang đậm ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa, đặc biệt là ở miền Bắc, với các món như bánh bao, mì sợi, phở cổ truyền. Ở miền Trung và miền Nam, do giao thương với nước ngoài (Nhật Bản, Hà Lan, Bồ Đào Nha), một số nguyên liệu như khoai tây, ớt, cà chua bắt đầu xuất hiện.
Đây là thời kỳ đỉnh cao của ẩm thực cung đình Huế với các món ăn cầu kỳ, tinh tế, mang tính nghệ thuật cao. Ẩm thực cung đình chú trọng đến cách trình bày, màu sắc và hương vị hài hòa. Một số món nổi bật gồm nem công, chả phượng, yến sào, cơm hến, bún bò Huế.
Vào thời kỳ dựng nước đầu tiên, vịnh Hạ Long vẫn còn là một vùng biển hoang sơ với những đảo đá vôi kỳ vĩ vươn lên từ mặt nước. Người Lạc Việt khi ấy chưa có sự can thiệp vào thiên nhiên mà chỉ sống hòa mình cùng biển cả. Những truyền thuyết về rồng mẹ nhả ngọc hình thành đảo đá cũng xuất hiện từ đây, biến nơi này thành một biểu tượng linh thiêng của dân tộc. Hình ảnh những hòn đảo muôn hình vạn trạng, như Hòn Trống Mái, Hang Đầu Gỗ, đã in sâu vào tâm thức người Việt từ thuở sơ khai.
Trong suốt hơn 1.000 năm Bắc thuộc, Phong Nha – Kẻ Bàng vẫn là một vùng núi rừng bí ẩn, chưa được khám phá. Các tài liệu cổ của Trung Hoa có ghi chép về những dãy núi đá vôi kỳ vĩ ở khu vực này, nhưng người Việt khi ấy vẫn chưa thực sự khai phá. Thiên nhiên nơi đây vẫn là một thế giới hoang sơ, với những dòng sông ngầm chảy xuyên qua hang động rộng lớn mà con người chưa từng đặt chân vào.
Khi Đinh Tiên Hoàng chọn Hoa Lư làm kinh đô, thiên nhiên nơi đây đã được tận dụng triệt để để xây dựng thành lũy. Những dãy núi đá vôi trùng điệp, bao quanh các dòng sông và cánh đồng tạo thành một bức tường phòng thủ tự nhiên vững chắc. Nếu như trước đây, Hoa Lư chỉ là một vùng đất hoang dã, thì dưới bàn tay con người, nó đã trở thành một kinh đô sừng sững giữa lòng thiên nhiên.
Vào thời Lý – Trần, thiên nhiên không chỉ đóng vai trò là nơi sinh sống mà còn trở thành nơi tu hành và phát triển tâm linh. Yên Tử khi ấy nổi lên như một thánh địa Phật giáo, nơi vua Trần Nhân Tông rời bỏ ngai vàng để lập nên Thiền phái Trúc Lâm. Những ngọn núi trùng điệp, những rừng cây bạt ngàn bao phủ nơi đây tạo thành một khung cảnh thanh tịnh, thiêng liêng.
Dưới triều Hậu Lê và Nguyễn, núi Bà Đen (Tây Ninh) trở thành một địa điểm linh thiêng gắn liền với truyền thuyết về nàng Lý Thị Thiên Hương. Lúc này, thiên nhiên vẫn còn hoang sơ, những con đường lên núi vẫn là những lối mòn nhỏ hẹp. Tuy nhiên, sự xuất hiện của các ngôi chùa, miếu thờ đã bắt đầu đánh dấu sự can thiệp của con người vào cảnh quan nơi đây.