Văn hóa Việt Nam từ thế kỷ 20 đến 21 đã chứng kiến những thay đổi đáng kể, đặc biệt là trong lĩnh vực trang phục, phản ánh quá trình hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Trước 1945, trang phục của người Việt mang đậm dấu ấn phong kiến và được phân biệt theo tầng lớp xã hội. Nếu trang phục của vua chúa, quan lại chịu ảnh hưởng của triều đình phong kiến Trung Quốc thì quần áo của thường dân lại rất đa dạng như áo nâu sòng, quần lụa đen, áo tứ thân, áo yếm, áo dài, vấn khăn mỏ quạ, đội nón quai thao… Trong thời kỳ Pháp thuộc, trang phục bắt đầu có sự giao thoa với thời trang phương Tây thông qua những chiếc váy xòe, đầm cách tân được phụ nữ quý tộc ưa chuộng mà điển hình là Hoàng hậu Nam Phương.
Sau Cách mạng tháng Tám 1945, trang phục có nhiều thay đổi do sự Âu hóa nhanh chóng tại khu vực thành thị. Ở miền Bắc, phổ biến nhất là loại áo kaki bốn túi thường được mặc bởi các cán bộ, viên chức, trí thức. Ở miền Nam, ngoài áo bà ba, nhiều người bắt đầu mặc áo sơmi. Riêng tầng lớp trí thức Sài thành ăn mặc hoàn toàn giống phương Tây: đàn ông mặc áo sơmi kết hợp với vest không tay, quần Âu vải, đi giày Tây da bóng, phụ nữ mặc váy hoặc áo dài cách tân. Còn ở miền Tây, áo sơmi trắng, quần Âu có dây đeo qua vai và mũ beret là trang phục điển hình của các công tử nhà giàu.
Kể từ năm 1954, áo dài được nhiều nữ sinh mặc đến trường. Áo dài thời kỳ này có tà rộng nhưng ngắn hơn bây giờ, eo cũng rộng hơn, cổ cao có lót cứng, ống tay hẹp. Vài năm sau, bà Trần Lệ Xuân (vợ ông Ngô Đình Nhu) tung ra kiểu áo dài cổ thuyền. Ban đầu, kiểu áo này bị phản đối dữ dội, nhiều người cho rằng nó đi ngược lại với thuần phong mỹ tục. Tuy nhiên, áo dài cổ thuyền lại rất thịnh hành sau đó và vẫn được ưa chuộng cho đến hôm nay.
Các loại áo, váy, đầm của nữ giới ngày càng phong phú, đa dạng về kiểu dáng, chất liệu: sơmi cổ tròn, cổ bẻ, không cổ, cổ khoét sâu hình bầu dục, cổ ngang, cổ vuông… tay ngắn, tay dài, tay phồng, tay lỡ… may bằng vải trắng, vải màu hay vải hoa; Váy thì có váy dài, váy ngắn, váy xòe, váy phồng, váy chữ A, may xếp li hoặc bó sát.
Sau năm 1968, chiếc váy mini bắt đầu du nhập vào Việt Nam và được phái nữ ưa chuộng, váy ngắn trên đầu gối, càng ngắn càng thời trang. Quần jeans cũng trở nên phổ biến trong thời kỳ này, đặc biệt là kiểu ống loe 30cm – 40cm, kết hợp với thắt lưng da to bản.
Sau năm 1975, hay đúng hơn là sau công cuộc đổi mới, các quan niệm, tư tưởng dường như cởi mở hơn cùng với quá trình giao lưu kinh tế, văn hóa. Đây là giai đoạn thời trang Việt Nam phân hóa đa dạng và phát triển với tốc độ chóng mặt. Đa số đàn ông thời kỳ này đều mặc quần Tây, áo sơmi ôm, ve áo và măng sét to bản. Các loại áo thun, áo ba lỗ cũng bắt đầu trở nên phổ biến và phong phú về màu sắc, kiểu dáng, chất liệu, họa tiết… Trong khi đó, trang phục của phụ nữ vẫn giữ được yếu tố truyền thống và gắn liền với đặc điểm vùng miền. Phụ nữ nông thôn miền Bắc vẫn mặc áo cánh nâu cổ tròn hoặc cổ tim, quần đen bằng vải lụa bóng, đầu vấn khăn vuông. Những người phụ nữ hoạt động cách mạng và làm cán bộ lại mặc áo sơmi đại cán, tay thẳng, cổ hình cánh nhạn, chất liệu kaki và thường có màu xanh, xám hoặc be hồng. Ở miền Nam, trang phục phổ biến vẫn là áo sơmi, áo thun và các loại váy đối với tiểu thương, trí thức; áo bà ba đối với nông dân.
Đến giai đoạn đầu thế kỷ 21 đến nay, áo dài đã quá trở nên quen thuộc và trở thành quốc phục của nước Việt Nam ta. Bên cạnh đó, áo dài trắng cũng đã trở thành trang phục cho học sinh trung học ở Việt Nam. Một số nữ nhân viên, giáo viên, hướng dẫn viên du lịch cũng mặc áo dài khi làm việc. Ngày nay Hoa hậu trái đất cũng mặc áo dài khi đứng trên sàn diễn.
Với trang phục ở thế kỷ 21 này chúng ta còn đi kèm theo là những phụ kiện đi kèm như: thắt lưng nam, túi xách nữ, cặp da và giày tây. Cũng bởi vì ảnh hưởng bởi sự du nhập của thời trang phương Tây và các nước khác cũng như phục vụ cho những hoàn cảnh và công việc khác nhau mà thường phục, trang phục của người dân không còn là những tà áo dài như xưa nữa, mà thay vào đó là áo thun, áo sơ mi trắng, váy dài, chân váy, quần dài, quần tây… cùng những chất liệu mới cho trang phục ra đời như cotton, voan, silk, kate… với tính chất mềm mại, thông thoáng làm cho con người hoạt động thuận tiện cũng như tự tin hơn khi khoác lên.
Còn áo dài cũng đã được cách tân ít nhiều để phù hợp với nhu cầu thẩm mỹ, tuy nhiên dù có cách tân thế nào, thì vẫn phải giữ được nét truyền thống của áo dài, không được thay đổi.
Lễ hội truyền thống được phục dựng và tổ chức quy mô hơn: Nhiều lễ hội cổ truyền như lễ hội Đền Hùng, lễ hội Gióng, lễ hội chùa Hương... được Nhà nước và cộng đồng quan tâm, đầu tư, tổ chức với quy mô lớn hơn, bài bản hơn, nhằm bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống.
Kết hợp yếu tố truyền thống và hiện đại: Các lễ hội truyền thống ngày nay thường kết hợp các nghi lễ cổ truyền với các hoạt động văn hóa, nghệ thuật hiện đại như biểu diễn nghệ thuật, triển lãm, hội chợ... nhằm thu hút đông đảo du khách, đặc biệt là giới trẻ.
Lễ hội âm nhạc điện tử (EDM): Các lễ hội âm nhạc điện tử như Ravolution Music Festival, Epizode... thu hút đông đảo giới trẻ tham gia, tạo nên một không gian âm nhạc sôi động, hiện đại.
Lễ hội ánh sáng: Các lễ hội ánh sáng như Lễ hội ánh sáng quốc tế Hoà Bình, thu hút khách du lịch bởi sự kết hợp ấn tượng giữa ánh sáng và âm nhạc.
Các lễ hội quốc tế: Những lễ hội quốc tế như liên hoan phim quốc tế Hà Nội, lễ hội pháo hoa quốc tế Đà Nẵng, mang đến những trải nghiệm văn hóa đa dạng và đặc sắc.
Nếu như thời Văn Lang, vịnh Hạ Long là một vùng biển hoang sơ thì đến thế kỷ 20, nó đã trở thành một trong những điểm du lịch nổi tiếng nhất Việt Nam. Việc UNESCO công nhận vịnh Hạ Long là Di sản thiên nhiên thế giới vào năm 1994 đã thúc đẩy sự phát triển du lịch mạnh mẽ, biến nơi đây thành biểu tượng của đất nước trên bản đồ quốc tế.
Tam Đảo, vốn chỉ là một vùng núi hoang sơ, đã được người Pháp phát hiện và biến thành một khu nghỉ dưỡng từ đầu thế kỷ 20. Những khách sạn, biệt thự kiểu Pháp mọc lên giữa vùng rừng sương mù, mang đến một không gian giao thoa giữa thiên nhiên và kiến trúc châu Âu. Ngày nay, Tam Đảo tiếp tục phát triển với các khu du lịch, homestay hiện đại nhưng vẫn giữ được vẻ đẹp thơ mộng của núi rừng.
Nếu như trước đây, Bà Nà chỉ là một vùng núi hoang vu, thì nay nó đã trở thành khu du lịch hàng đầu với những công trình độc đáo như Cầu Vàng, làng Pháp, vườn hoa Le Jardin. Con người đã biến thiên nhiên thành một tác phẩm nghệ thuật, kết hợp giữa cảnh quan nguyên sơ và kiến trúc hiện đại, biến nơi đây thành một điểm đến không thể bỏ qua.
Mãi đến năm 2009, hang Sơn Đoòng mới được chính thức khám phá và đưa vào danh sách những kỳ quan thiên nhiên của thế giới. Trước đó, đây vẫn là một vùng đất bí ẩn chưa ai đặt chân tới. Ngày nay, Sơn Đoòng trở thành điểm đến mơ ước của các nhà thám hiểm toàn cầu, mang đến một vẻ đẹp ngoạn mục và kỳ vĩ mà không nơi nào sánh được.
Từng chỉ là một bãi biển bình lặng với những làng chài nhỏ, Đồ Sơn nay đã trở thành một khu du lịch biển sôi động với hàng loạt khách sạn, resort hiện đại. Lễ hội chọi trâu truyền thống vẫn được giữ gìn, kết hợp cùng các hoạt động du lịch mới mẻ như du thuyền, câu cá, thể thao trên biển.
Từ một vùng đất hoang vu với những đồi cát đỏ trải dài, Mũi Né đã phát triển thành khu du lịch biển hàng đầu Việt Nam. Những khu resort cao cấp, các môn thể thao biển như lướt ván diều, dù lượn đã biến nơi đây thành thiên đường nghỉ dưỡng, thu hút hàng triệu du khách mỗi năm.